Keo ong và khả năng chống lại các cơ chế lây nhiễm SARS-CoV-2 và COVID-19 - Phần 3

Keo ong, một nguyên liệu nhựa do ong mật sản xuất từ ​​dịch tiết thực vật, từ lâu đã được sử dụng trong y học cổ truyền và được coi như một chất hỗ trợ sức khỏe và tăng cường hệ thống miễn dịch cơ thể

Keo ong có thể tương tác với ACE2 và TMPRSS2, có khả năng ngăn chặn hoặc giảm sự xâm nhập của SARS-CoV-2 vào tế bào chủ

SARS-CoV-2 liên kết mạnh mẽ với enzym chuyển angiotensin 2 (ACE2), sử dụng enzym này như một thụ thể để xâm nhập và sao chép trong tế bào chủ, gây tổn thương và làm tăng sự lây truyền giữa các cá nhân. Do đó, các chất ức chế ACE đã được coi là những lựa chọn thay thế thuốc hữu ích. Tuy nhiên, tác dụng có hại tiềm tàng đối với người sử dụng thuốc ức chế men chuyển (ACE) và thuốc chẹn thụ thể angiotensin (ARB) đã nổi lên như một mối quan tâm khi điều trị bệnh nhân COVID-19. Một nghiên cứu quan sát trên 8.910 bệnh nhân đã không xác nhận nghi ngờ này, và do đó các nhóm thuốc này vẫn là một công cụ quan trọng chống lại các biến cố tim mạch tiềm ẩn.

Ức chế men ACE2 là mục tiêu quan trọng để điều trị chống nhiễm trùng SARS-CoV-2. Güler và cộng sự. đã điều chế chiết xuất keo ong có cồn và xác định một số axit hydroxycinnamic (axit caffeic, axit p-coumaric, axit t-cinnamic và CAPE), flavanons rutin và myricetin, và các flavon hesperidin, chrysin và pinocembrin. Sử dụng các đánh giá kết nối phân tử, họ phát hiện ra rằng rutin có năng lượng liên kết cao nhất với ACE2, tiếp theo là myricetin, axit caffeic phenethyl ester, hesperetin và pinocembrin. Rutin tương tác với các ngón tay kẽm của các vị trí hoạt động của ACE2, một metalloprotease có cùng ngón tay kẽm trong ACE.

Ngoài các bằng chứng về silico, Osés et al. đã đánh giá một số loại keo ong về các đặc điểm khác nhau, bao gồm cả việc ức chế ACE. Họ phát hiện ra sự ức chế mạnh mẽ đối với hầu hết các loại keo ong mà họ nghiên cứu, với mức ức chế ACE cao hơn 90%. Kết quả tốt nhất được tìm thấy với các thành phần catechin và axit p-coumaric của keo ong.

ACE2 và TMPRSS2 (protease serine xuyên màng 2) trên bề mặt tế bào chủ được SARS-CoV-2 sử dụng thông qua tương tác với glycoprotein tăng đột biến để tiến hành xâm nhập và sao chép. Vardhan & Sahoo đã nghiên cứu một số phân tử thường được tìm thấy trong dược liệu bằng cách sử dụng quy trình gắn kết phân tử với các mục tiêu liên quan, chẳng hạn như RNA polymerase phụ thuộc RNA (RdRp), ACE2 và các glycoprotein tăng đột biến và so sánh điểm số thu được với hydroxychloroquine.

Limonin là hợp chất hoạt động mạnh nhất; tuy nhiên, quercetin và kaempferol, cũng là các hợp chất của keo ong, cho điểm cao. Kaempferol đã được nghiên cứu trên các mô hình ung thư tuyến tiền liệt, và sự biểu hiện của TMPRSS2 được giảm bớt, cho thấy một cơ chế hoạt động tiềm năng đối với tác dụng kháng u. Kaempferol có thể là một thành phần keo ong quan trọng để sử dụng chống lại COVID-19, vì nó có liên quan đến việc ức chế TMPRSS2, có khả năng tương tác với ACE2, RdRp và tăng đột biến glycoprotein (SGp), bên cạnh hoạt tính kháng virus của nó

Keo ong ngăn chặn PAK-1, có khả năng tránh xơ phổi và phục hồi phản ứng miễn dịch bình thường

Trong số các mục tiêu có thể để kiểm soát thiệt hại COVID-19, kinase PAK1 “gây bệnh” chính là chìa khóa. Nó là một thành phần thiết yếu trong bệnh sốt rét và nhiễm vi-rút, nhưng nó cũng có liên quan đến nhiều loại bệnh và tình trạng bệnh khác, bao gồm ung thư, viêm và ức chế miễn dịch, khi được kích hoạt bất thường. Hậu quả của việc kích hoạt PAK1 bao gồm xơ hóa phổi  , là một yếu tố làm trầm trọng thêm COVID-19. PAK1 được kích hoạt bởi RAC. Xu và cộng sự. đã chứng minh rằng axit caffeic và este của nó (CAPE), các thành phần của keo ong, có thể bất hoạt RAC, do đó ức chế PAK1. Sự bất hoạt của PAK1 trực tiếp, hoặc dòng lên, có thể làm giảm khả năng sinh bệnh của coronavirus. Tế bào B và tế bào T là những tế bào lympho sản sinh ra các kháng thể đặc hiệu chống lại virus và những kẻ xâm nhập khác, và PAK1 góp phần vào việc đàn áp chúng. Các chất ức chế PAK1 vừa có thể giúp chống lại vi rút vừa phục hồi phản ứng miễn dịch bình thường.

Keo ong từ châu Âu và ôn đới châu Á, thường do ong làm từ nhựa thu thập từ cây Dương, có hợp chất flavonoid chủ yếu, có nhiều loại flavonoid và phenylpropanoid được đánh dấu, chẳng hạn như artepellin C, baccharin và drupanin. Những loại keo ong này và tất cả các loại keo ong khác có thể làm bất hoạt PAK1. Artepillin C ức chế chọn lọc PAK1.

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng keo ong có thể hoạt động như một chất kích thích miễn dịch, với khả năng cải thiện phản ứng miễn dịch. Các thành phần của nó làm tăng hiệu giá kháng thể trung hòa, kích hoạt quá trình thực bào, và tăng mức IFN-γ và số lượng tế bào lympho. Sự gia tăng nồng độ IFN-γ cũng được phát hiện bởi Shimizu và cộng sự. , người đã đánh giá các cơ chế liên quan đến tác dụng của một số loại keo ong trên mô hình động vật herpes simplex.

CAPE (axit caffeic phenethyl ester) là một chất ức chế mạnh sự hoạt hóa của NF-kB trong các tế bào monocytic của dòng tủy. Ansorge và cộng sự. đã chứng minh rằng keo ong, CAPE, quercetin, hesperidin và một số flavonoid keo ong khác có thể ức chế sản xuất cytokine của tế bào T loại Th1 và Th2, đồng thời tăng TGF-beta 1, một cytokine chống viêm quan trọng. Hơn nữa, CAPE có thể làm giảm căng thẳng oxy hóa và tình trạng viêm thông qua việc điều chỉnh giảm tín hiệu JAK2 / STAT3 cũng như có tác dụng điều hòa miễn dịch, trong đó CAPE ức chế sự phosphoryl hóa IL-6 và STAT3, những yếu tố quan trọng đối với sự phát triển Th17 tiền viêm.

DOCTORBEES chuyên phân phối các sản phẩm về ong, mật ong, sữa ong chúa, keo ong Hàn Quốc Unique Propolis, sáp ong, nến sáp ong, trực tiếp sản xuất chân tầng ong ngoại (ong Ý) tại Việt Nam: 

DOCTORBEES TIMES CITY 

TN-K1 TTTM TIMES CITY, 458 MINH KHAI, HAI BÀ TRƯNG, HÀ NỘI 

Hotline: 0911876668                   Website: doctorbees.vn