Ứng dụng y sinh của keo ong

Tác dụng y sinh của keo ong tới sức khỏe của con người.

Syed Ishtiaq Anjum và cộng sự, Saudi Journal of Biological Sciences 26 (2019) 1695–1703

Keo ong có tác dụng rất lớn đối với sức khỏe con người và được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau. Ngày nay, keo ong được sử dụng như một chất kháng khuẩn, kháng nấm, chống viêm, kháng vi-rút, thuốc gây mê, chất chống oxy hóa (Boukraâ và Sulaiman, 2009; Omar và cộng sự, 2017), chống ung thư, chống ung thư, chống ung thư (Abdulrhman và cộng sự, 2012; Bankova và cộng sự. cộng sự, 2000; Bankova và cộng sự, 1992; Fokt và cộng sự, 2010; Koo và Park, 1997; Kuropatnicki và cộng sự, 2013; Popova và cộng sự, 2004; Rajpara và cộng sự, 2009; Ramos và Miranda, 2007; Sforcin, 2016) hạ huyết áp, chống ung thư và chống độc gan ngoài việc sở hữu hoạt tính gây độc tế bào, v.v. (Toreti và cộng sự, 2013).

5.1. Hoạt động chống vi khuẩn của keo ong

Keo ong có tác dụng đáng kể chống lại vi khuẩn như Enterococcus spp., Escherichia coli và Staphylococcus aureus (AL-Waili et al., 2012; Grange and Davey, 1990; Kasiotis et al., 2017; Kujumgiev et al., 1999; Kuropatnicki et al. cộng sự, 2013; Martin và Pileggi, 2004; Sforcin và cộng sự, 2000; Silici và Kutluca, 2005). Keo ong cũng cho thấy rằng, chiết xuất etanolic của keo ong có hiệu quả hơn đối với vi khuẩn gram dương và cho thấy tác dụng hạn chế đối với vi khuẩn gram âm (Ahuja và Ahuja, 2011; De Castro, 2001; Fokt và cộng sự, 2010; Grange và Davey, 1990 ; Harfouch và cộng sự, 2016; Lotfy, 2006; Martinotti và Ranzato, 2015; Uzel và cộng sự, 2005; Wagh, 2013) nhưng chỉ ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn gram âm do nồng độ keo ong cao (Sforcin và cộng sự, 2000). Phương thức hoạt động của keo ong là do sự tương tác giữa phenolic với các hợp chất khác như pinocembrin, galangin và pinobanksin (Castaldo và Capasso, 2002; Tosi và cộng sự, 1996; Wagh, 2013). Tương tự, hoạt động kháng khuẩn diễn ra do các hợp chất hoạt tính của keo ong như hợp chất thơm (axit caffeic) và flavonoid (Parolia và cộng sự, 2010).

Hơn nữa, keo ong hoạt động như một chất diệt khuẩn, ngăn chặn sự phân chia của tế bào vi khuẩn, phá hủy thành tế bào, tế bào chất của vi khuẩn (Parolia et al., 2010) và ngừng tổng hợp protein (Lotfy, 2006; Machado et al., 2017). Thành phần của keo ong như Pinocembrin cho thấy hoạt tính kháng khuẩn đối với Streptococcus spp. artepillin C, axit p-Coumaric và axit 3-phenyl-4-di hydrocinnamylocinnamic đối với Helicobacter pylori và Apigenin hạn chế mạnh mẽ glycosyltransferase của vi khuẩn (Martinotti và Ranzato, 2015). Keo ong có hiệu quả hơn đối với vi khuẩn Gram dương so với những loại vi khuẩn Gram âm (Salomao et al., 2008).

Keo ong cho thấy hoạt tính kháng khuẩn chống lại một số vi khuẩn hiếu khí như: Bacillus cereus, B. subtilis, Enterococcus faecalis, Micrococcus luteus, Nocardia asteroids, Rhodococcus equi, Staphylococcus auricularis, S. epidermidis, S. capitis, S. haemolyticus, S. warnerii, S . mutans, S. hominis, Streptococcus cricetus, St. faecalis, St. pyogenes, St. pneumioniae, St. sobrinus và St. viridians (Fokt và cộng sự, 2010).

5.2. Hoạt động chống nấm của keo ong

Keo ong cho thấy hoạt động chống lại các loại nấm khác nhau (Acikelli và cộng sự, 2013; Aghel và cộng sự, 2014; AL-Waili và cộng sự, 2012; Alvareda và cộng sự, 2015; Franchin và cộng sự, 2016; Kartal và cộng sự, 2003 ; Marcucci, 1995). Người ta đã nghiên cứu ra rằng, keo ong ức chế nấm aflatoxigenic và cũng làm giảm sự phát triển của bào tử ở Aspergillus flavus. Keo ong từ các khu vực khác nhau cho thấy hoạt động chống lại Candida guilliermondii, C. guilliermondii, C. krusei, C. albicans.

Trong một cuộc điều tra khác, một loại keo ong của Pháp đã được sử dụng hiệu quả để chống lại nấm bệnh ở người C. albicans, C. glabrata, Aspergillus fumigates. Một thành phần của keo ong được gọi là pinocembrin cho thấy hoạt động chống lại Penicillium italicum, ngăn chặn sự phát triển của sợi nấm và tác động lên quá trình hô hấp của mầm bệnh và cân bằng nội môi năng lượng dẫn đến vỡ màng tế bào và rối loạn chuyển hóa (Sforcin, 2016). Keo ong cũng cho thấy tác dụng diệt nấm đối với nấm men (Sforcin et al., 2000).

Sự hiện diện của flavonoid trong keo ong cho thấy hoạt động diệt nấm chống lại C. pelliculosa, C. parapsilosis, và Pichia ohmeri, C. famata, C. glabrata (Wagh, 2013). Keo ong Úc cho thấy hoạt tính chống nấm đối với C. albicans, do lượng pinocembrin nhiều hơn (Banskota và cộng sự, 2001b). Người ta báo cáo rằng, các thành phần của keo ong như, 3-acetylpinobanksin, pinobanksin-3-axetat, pinocembrin, axit p-coumaric và axit caffeic trong số 26 thành phần trở lên cho thấy hoạt tính chống nấm. Hơn nữa, axit caffeic cho thấy hoạt tính chống co thắt đối với Helminthosponum carbon (Özcan, 1999). Keo ong cho kết quả tốt chống lại Mycobacteria, Candida, Trichophyton, Fusarium cũng như các loại nấm lây nhiễm qua da khác (Fokt và cộng sự, 2010).

5.3. Hoạt động chống khối u của keo ong

Các thành phần của keo ong có đặc tính chống khối u (Banskota và cộng sự, 2000; Callejo và cộng sự, 2001; Kimoto và cộng sự, 1998; Komericki và Kränke, 2009; Su và cộng sự, 1995; Veiga và cộng sự, 2017 ) và các thành phần như axit caffeic phenethyl ester (CAPE) (Castaldo và Capasso, 2002) và artepillin C đã được nghiên cứu, và phát hiện có tác dụng chống khối u (Chan và cộng sự, 2013). Các hợp chất này của keo ong tham gia vào quá trình bắt giữ chu kỳ tế bào, ức chế ma trận metalloproteinase, tác dụng chống hình thành mạch và cũng ức chế sự chuyển dịch bệnh từ bộ phận cơ thể này sang bộ phận khác (Sforcin, 2016).

Keo ong có khả năng ngăn chặn sự tổng hợp DNA trong tế bào khối u, có đặc tính gây lão hóa tế bào khối u (Apoptosis) và có khả năng tác động vào tế bào bạch cầu để tạo ra những tác nhân có thể điều chỉnh chức năng của B, T và tế bào tiêu diệt tự nhiên tương ứng (Salomão và cộng sự, 2011; Wagh, 2013). Các hợp chất khác như galangin, cardanol, nemorosone và chrysin có liên quan để ngăn chặn sự phân chia nhanh chóng của các tế bào khối u (Sforcin, 2016). Hoạt động gây độc tế bào của tế bào tiêu diệt tự nhiên (NK) chống lại ung thư hạch ở chuột tăng lên khi sử dụng keo ong trong 3 ngày (Fokt và cộng sự, 2010; Sforcin, 2007).

Sự hiện diện của các protein ức chế khối u trong axit Caffeic phenethyl ester gây ra quá trình apoptosis của tế bào u thần kinh đệm C6 (De Castro, 2001; Sforcin, 2016; Watanabe et al., 2011). Axit caffeic và este cũng như diterpenoit và các hợp chất phenolic có khả năng tiêu diệt các tế bào khối u. Tác dụng chống khối u của keo ong là do chức năng kết hợp các thành phần polyphenolic của keo ong (Sforcin, 2007). Việc giảm sản xuất glutathione trong tế bào khối u do bức xạ, do đó keo ong được thực hiện như sự tổng hợp glutathione trong các mô tạo máu (Chandna và cộng sự, 2014). Keo ong Thổ Nhĩ Kỳ hoạt động như một chất chống khối u bằng cách tăng cường sự chết của tế bào theo chương trình, keo ong cũng cho thấy sự chậm lại của leucine, thymidine và uridine để trở thành các tế bào gây ung thư, bằng cách hạn chế sự tổng hợp DNA (Watanabe et al., 2011).

5.4. Hoạt động chống nguyên sinh của keo ong

Hoạt động kháng nguyên sinh của keo ong chống lại nhiều động vật nguyên sinh gây bệnh cho người và động vật khác như bệnh giardia (Freitas và cộng sự, 2006), bệnh chagas, bệnh leishmaniasis (Duran và cộng sự, 2008), bệnh trichomonas, bệnh toxoplasma (De Castro, 2001); Salomão và cộng sự, 2011; Torres và cộng sự, 1990) đã được báo cáo (Aghel và cộng sự, 2014). Tuy nhiên, keo ong cho thấy hoạt động kháng nguyên sinh đối với Leishmania donovani, Trypanosoma cruzi, Giardia lamblia, Trichomonas vaginalis, Toxoplasma gondii và G. duodenalis (Aminimoghadamfarouj và Nematollahi, 2017; Fokt và cộng sự, 2010; Wagh, 2013). Một số thành phần của keo ong có hoạt tính chống vi khuẩn như, axit caffeic, chrysin, axit moronic, axit protocatechuic, axit p-coumaric, apigenin và các thành phần khác như terpenoit, este và phenol (Sforcin, 2016).

Keo ong cho thấy hoạt động tốt hơn (coccidostatic) đối với Chilomonas parametercium (Marcucci, 1995). Chiết xuất dimethyl-sulphoxide và chiết xuất ethanolic của keo ong có hiệu quả hơn đối với Trypanosoma cruzi trong khi cho thấy tác dụng tiêu diệt Trichomonas vaginalis (Lotfy, 2006). Marcucci và cộng sự. (2001) đã tách 4 hợp chất phenolic từ keo ong Brazil như 2,2-dimetyl-6-cacboxyethenyl-2H-1-benzo pyran, 3,5-diprenyl-4-axit hydroxycinnamic, 3 - (2,2-đimetyl- Axit propenoic 8-p renylbenzopyran-6-yl) và axit 3,5-diprenyl-4- hydroxycinnamic, cho thấy hoạt tính chống vi khuẩn đối với Trypanosoma cruzi (Banskota và cộng sự, 2001b; Marcucci và cộng sự, 2001).

DOCTORBEES chuyên phân phối các sản phẩm về ong, mật ong, sữa ong chúa, keo ong, sáp ong, nến sáp ong tại Việt Nam: 

DOCTORBEES TIMES CITY 

TN-K1 TTTM TIMES CITY, 458 MINH KHAI, HAI BÀ TRƯNG, HÀ NỘI 

Hotline: 0911876668                   Website: doctorbees.vn